Điểm khác nhau giữ sáng chế và giải pháp hữu ích

Sáng chế và giải pháp hữu ích là hai thuật ngữ luôn đi cùng với nhau trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ. Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.

Theo luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, sáng chế được chia thành hai dạng, bao gồm: Sáng chế và giải pháp hữu ích.

Một phát minh được bảo hộ dưới dạng độc quyền sáng chế phải là sản phẩm hoàn toàn mới, có tính sáng tạo cao mà người bình thường không thể nghĩ ra được. Nó có khả năng ứng dụng trong công nghiệp và đời sống. Được bảo hộ trong vòng 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ.

Còn giải pháp hữu ích là những sản phẩm chế tạo ra nhằm cải tiến hoặc làm tăng thêm chức năng của các sáng chế đã có trước đó. Thiết bị này góp phần làm cho sản phẩm trở nên hữu ích hơn, bằng độc quyền giải pháp hữu ích được bảo hộ trong thời gian 10 năm.

Về cơ bản, Sáng chế và giải pháp hữu ích khá là tương đồng. Tuy nhiên, điều tạo nên sự khách biệt giữa chúng là về mặt pháp lý:

Thứ nhất:  Về điều kiện bảo hộ

Sáng chế được bảo hộ phải đáp ứng ba tiêu chí đó là: có tính mới, có tính sáng tạo, có khả năng áp dụng công nghiệp.

Còn đối với giải pháp hữu ích thì chỉ cần đáp ứng có hai tiêu chí để được bảo hộ đó là: có tính mới, có khả năng áp dụng công nghiệp.

Thứ hai: Về thời hiệu bảo hộ độc quyền

Sáng chế được bảo hộ trong vòng 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ. Đối với giải pháp hữu ích được bảo hộ trong thời gian 10 năm.

Ai có quyền đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích?

Tác giả là người tạo ra sáng chế, giải pháp hữu ích bằng công sức và chi phí của mình.

Tổ chức, cá nhân đầu tư kinh phí, phương tiện vật chất cho tác giả, dưới hình thức giao việc, thuê việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Trường hợp nhà nước đầu tư toàn bộ kinh phí, phương tiện vật chất, kỹ thuật thì quyền đăng ký thuộc về tổ chức, cơ quan được nhà nước giao thực hiện nhiệm vụ này sẽ có trách nhiệm đại diện cho nhà nước để đăng ký.Trong trường hợp nhiều tổ chức, cá nhân cùng nhau tạo ra hoặc đầu tư để tạo ra sáng chế, giải pháp hữu ích thì các tổ chức, cá nhân đó đều có quyền đăng ký và quyền đăng ký này chỉ được thực hiện khi tất cả các tổ chức, cá nhân đó đều đồng ý.

Trường hợp nhà nước góp một phần kinh phí, điều kiện kỹ thuật thì một phần đăng ký tương ứng với tỷ lệ góp vốn thuộc về nhà nước.

Trường hợp sáng chế được tạo ra trên cơ sở hợp tác nghiên cứu giữa cơ quan nhà nước với tổ chức cá nhân khác, nếu trong hợp đồng hợp tác không có quy định nào khác, thì phần quyền đăng ký tương ứng với tỷ lệ đóng góp của nhà nước trong việc hợp tác nghiên cứu.

Tổ chức, cá nhân có quyền đăng ký thì có quyền chuyển giao quyền đăng ký đó cho tổ chức, cá nhân khác dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản, có quyền để thừa kế quyền nộp đơn, hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật, kể cả trong trường hợp đã nộp đơn đăng ký (Điều 86 Luật SHTT, Điều 9 nghị định 103/2006/NĐ-CP).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *